Trận Osijek

Trận Osijek
Một phần của Chiến tranh giành độc lập Croatia
Thời giantháng 8 năm 1991 – tháng 6 năm 1992
Địa điểm
Osijek, Croatia
Kết quả
  • Không có sự thay về đổi lãnh thổ
  • Croatia giữ lại quyền kiểm soát Osijek
Tham chiến
Yugoslavia Nam Tư  Croatia
Chỉ huy và lãnh đạo
Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư Andrija Biorčević Croatia Branimir Glavaš
Croatia Karl Gorinšek
Thương vong và tổn thất
Không rõ 800 người chết

Trận Osijek (tiếng Croatia: Bitka za Osijek) là một trận đánh trong Chiến tranh giành độc lập Croatia, diễn ra từ tháng 8 năm 1991 đến tháng 6 năm 1992, khi Quân đội nhân dân Nam Tư (JNA) tấn công thành phố Osijek. Các tấn công đạt đỉnh điểm vào cuối tháng 11 và tháng 12 năm 1991, sau đó giảm dần vào năm 1992 sau khi kế hoạch Vance được chấp thuận. Không kích và tấn công trên bộ của các đơn vị bộ binh và thiết giáp nhằm vào các mục tiêu trong thành phố cùng với pháo kích, đã khiến khoảng 800 người thiệt mạng và một lượng lớn người dân phải di tản. Các nguồn tin của Croatia ước tính rằng 6.000 quả đạn pháo đã được bắn vào Osijek trong thời gian này.

Sau khi JNA chiếm được Vukovar vào ngày 18 tháng 11 năm 1991, Osijek là mục tiêu tiếp theo. Các đơn vị JNA trực thuộc Quân đoàn 12, được hỗ trợ bởi Lực lượng Vệ binh Tình nguyện Serb, đã đạt được một số bước tiến nhỏ vào cuối tháng 11 và đầu tháng 12, chiếm được một số ngôi làng ở phía nam Osijek, nhưng Quân đội Croatia vẫn duy trì mặt trận phòng thủ và hạn chế các bước tiến của JNA.

Sau trận Osijek, chính quyền Croatia đã buộc tội 13 sĩ quan JNA tội ác chiến tranh, nhưng cho đến nay không ai bị bắt. Các nhà chức trách Croatia cũng buộc tội chỉ huy lực lượng bảo vệ Osijek, Branimir Glavaš, và 5 người khác. 5 người này đã bị kết án và nhận các bản án từ 8 đến 10 năm và các thủ tục tố tụng chống lại Glavaš đang được tiến hành, tính đến tháng 3 năm 2015.

Bối cảnh

Năm 1990, sau bầu cử quốc hội Croatia, căng thẳng sắc tộc trở nên tồi tệ hơn. Quân đội Nhân dân Nam Tư (Jugoslovenska Narodna Armija – JNA) đã tước vũ khí của Lực lượng Phòng thủ Lãnh thổ Croatia (Teritorijalna obrana – TO) để giảm thiểu khả năng kháng cự.[1] Vào ngày 17 tháng 8 năm 1990, căng thẳng leo thang đã thành một cuộc nổi dậy của người Serb ở Croatia.[2] Cuộc nổi dậy tập trung ở các khu vực người Serb chiếm đa số ở Dalmatia, xung quanh thành phố Knin,[3] và ở các khu vực Lika, Kordun, Banovina và miền đông Croatia.[4] Vào tháng 1 năm 1991, Serbia, được hỗ trợ bởi Montenegro, vùng Vojvodina và Kosovoa, đã thực hiện hai nỗ lực không thành để được Tổng thống Nam Tư chấp thuận triển khai JNA để giải giáp lực lượng an ninh Croatia.[5]

Sau một cuộc giao tranh không đổ máu giữa quân nổi dậy người Serb và cảnh sát đặc nhiệm Croatia vào tháng 3,[6] JNA, được hỗ trợ bởi Serbia và các đồng minh, đã yêu cầu Tổng thống liên bang cấp quyền hạn thời chiến và tuyên bố tình trạng khẩn cấp. Yêu cầu bị từ chối vào ngày 15 tháng 3 năm 1991,[7] và JNA chuyển sang quyền kiểm soát của Tổng thống Serbia Slobodan Milošević vào mùa hè năm 1991 khi liên bang Nam Tư bắt đầu tan rã.[8] Vào cuối tháng, xung đột đã leo thang, dẫn đến những người đầu tiên thiệt mạng trong cuộc chiến.[9] JNA sau đó đã tham gia để hỗ trợ quân nổi dậy và ngăn chặn cảnh sát Croatia can thiệp.[7] Vào đầu tháng 4, các nhà lãnh đạo cuộc nổi dậy của người Serb ở Croatia đã tuyên bố ý định hợp nhất các khu vực do họ kiểm soát với Serbia. Chính phủ Croatia coi đây là một hành động ly khai.[10]

Diễn biến

Bản đồ cho thấy các cuộc giao tranh ở miền đông Slavonia, tháng 9 năm 1991 - tháng 1 năm 1992; Osijek nằm ở góc trái trên bản đồ

JNA đã can thiệp trực tiếp vào Croatia lần đầu tiên vào ngày 3 tháng 7 năm 1991, đẩy lực lượng Croatia ra khỏi Baranja, phía bắc Osijek,[11] và ra khỏi Erdut, Aljmaš và Dalj phía đông Osijek,[12] theo sau đó là cuộc tiến công liên tục xung quanh Osijek, Vukovar và Vinkovci.[13] Tại một số nơi, các vị trí của JNA đã tiến tới gần, chỉ cách giới hạn thành phố Osijek vài trăm yard..[14]

Các đơn vị JNA gần Osijek trực thuộc Quân đoàn 12,[15] do Andrija Biorčević chỉ huy.[16] Trong thành phố, có một số lực lượng thuộc JNA đóng quân như Lữ đoàn Cơ giới hóa vô sản 12 và Trung đoàn Pháo hỗn hợp 12.[17] Lữ đoàn Cơ giới hóa vô sản 12 là một trong số ít lữ đoàn luôn duy trì ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu.[18] Osijek được chọn làm điểm xuất phát trong kế hoạch cho cuộc tấn công theo về phía tây nhằm vào Našice và Bjelovar.[15]

Các lực lượng Croatia trong khu vực trực thuộc Bộ Chỉ huy Vùng Tác chiến ở Osijek do Karl Gorinšek đứng đầu.[19] Dù vậy, trên thực tế, việc phòng thủ của thành phố được giám sát bởi Branimir Glavaš, người đứng đầu Văn phòng Quốc phòng ở Osijek vào thời điểm đó, theo thông tin được trình bày tại phiên tòa Glavaš vào những năm 2000. Glavaš chính thức trở thành chỉ huy lực lượng phòng thủ thành phố vào ngày 7 tháng 12 năm 1991.[20]

Bắn phá thành phố

Sửa chữa một phần thiệt hại do bắn phá ở Osijek

JNA tấn công lần đầu tiên Osijek vào ngày 31 tháng 7 năm 1991,[21] và bắn phá trung tâm thành phố vào ngày 19 tháng 8 năm 1991.[22] Các cuộc tấn công từ phía bắc, đông và nam Osijek,[23] được hỗ trợ bởi các đơn vị đồn trú JNA đóng tại Osijek.[24] Vào ngày 7-9 tháng 9, một trận chiến bất phân thắng bại đã diễn ra ở Tenja, trong phạm vi ba kilômét (1,9 dặm) thành phố.[25] Các đơn vị đồn trú của JNA bị bao vây bởi lực lượng Croatia vào giữa tháng 9. Sau khi một doanh trại ở trung tâm thành phố bị chiếm vào ngày 15 tháng 9 năm 1991,[26] lực lượng JNA còn lại đã cố gắng xuyên thủng vòng vây quân đội Croatia xung quanh doanh trại. Sau khi giao tranh ác liệt, lực lượng này đã đến được các vị trí của JNA ở phía nam Osijek vào ngày 17 tháng 9 năm 1991.[17] Sau đó, cường độ các cuộc pháo kích tăng lên, đạt đỉnh điểm trong suốt tháng 11 và tháng 12. Lệnh ngừng bắn được thực hiện vào tháng 1 năm 1992 nhờ kế hoạch Vance, và các cuộc pháo kích đã dần dừng lại,[27] và chấm dứt hoàn toàn vào tháng 6.[23]

Vào lúc đỉnh điểm, cường độ bắn phá là có thể lên tới một quả đạn mỗi phút,[28] và các cuộc tấn công bằng pháo binh được hộ trợ bởi Không quân Nam Tư.[29] Theo Croatia, tổng cộng 6.000 quả đạn pháo đã được bắn vào Osijek trong giai đoạn này.[30] Trước khi bắt đầu sau trận pháo kích, dân số nội thành Osijek là 104.761 và dân số khu vực đô thị là 129.792.[31] Những con số này đã giảm đáng kể sau khi người dân chạy trốn khỏi các cuộc giao tranh. Ước tính rằng chỉ có khoảng một phần ba người dân ở lại thành phố vào cuối tháng 11,[32] với một số nguồn đưa ra ước tính thậm chí còn thấp hơn, cho thấy rằng dân số là giảm xuống chỉ còn 10.000 người trong thời kỳ khốc liệt nhất.[33] Những người ở lại thường ngủ trong các hầm trú bom.[14]

Trên mặt đất

Bản đồ phía đông Slavonia
Vukovar
Vukovar
Vinkovci
Vinkovci
Osijek
Osijek
Tenja
Tenja
Nemetin
Nemetin
Ernestinovo
Ernestinovo
Đakovo
Đakovo
Antunovac
Antunovac
Laslovo
Laslovo
Paulin Dvor
Paulin Dvor
Erdut
Erdut
Dalj
Dalj
Tvrđavica
Tvrđavica
Bản đồ khu vực phía đông Slavonia giữa Osijek và Vukovar

Sau khi JNA chiếm được Vukovar vào ngày 18 tháng 11, Quân đoàn 12, được hỗ trợ bởi Lực lượng Vệ binh Tình nguyện Serb,[34][35] bắt đầu tây tiến đến khu vực giữa Vinkovci và Osijek vào ngày 20 tháng 11.[34] Osijek dường như là mục tiêu tiếp theo của JNA,[36], sau này được xác nhận bởi Života Panić, chỉ huy của Quân khu 1 JNA.[37]

Vào ngày 21 tháng 11 năm 1991, JNA đã chiếm được các làng Stari Seleš, Novi Seleš và Ernestinovo nằm cách Osijek khoảng mười kilômét (6,2 dặm) về phía nam, và Laslovo, năm kilômét (3,1 dặm) phía nam Ernestinovo, ba ngày sau đó. Điều này đe dọa Đakovo và chỉ ra khả năng Osijek bị bao vây.[12] Vào ngày 4 tháng 12 năm 1991, Đặc phái viên của Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Cyrus Vance đã đến Osijek kiểm tra thiệt hại.[38]

Vào đầu tháng 12, JNA đã đạt được những bước tiến nhỏ, chiếm được Antunovac sáu kilômét (3,7 dặm) về phía nam Osijek vào ngày 5 tháng 12 năm 1991.[12] Cùng ngày, một lực lượng JNA đã tấn công các vị trí do Lữ đoàn 106 Croatia trấn giữ trong Rừng Rosinjača gần Nemetin, cách khoảng hai kilômét (1,2 dặm) về phía đông Osijek, nhưng không thành công.[39] Vào ngày 6 tháng 12, JNA đã đẩy lui quân đội Croatia khỏi Tenja,[12] theo sau là một cuộc tấn công vào Osijek bị Quân đội Croatia đẩy lui (Hrvatska vojska  – HV) vào ngày 7 tháng 12.[40] Ngày 11 tháng 12, HV tiến vào ngôi làng tiền tuyến Paulin Dvor, chưa đầy ba kilômét (1,9 dặm) phía tây Ernestinovo,[12] và hành quyết 19 thường dân (18 người Serb và một người Hungary).[41][42] JNA đã chiếm lại Paulin Dvor năm ngày sau đó, vào ngày 16 tháng 12,[12] và tấn công Osijek một lần nữa.[43] HV đã kiềm chế được cuộc tấn công, mặc dù giao tranh vẫn tiếp diễn ở phía nam Osijek cho đến tháng 1 năm 1992.[34]

Chiến dịch Devil's Beam

Bước tiến của JNA đã đe dọa quyền kiểm soát của HV đối với một đầu cầu hẹp bắc qua sông Drava phía bắc của thành phố. Đến giữa tháng 12, đầu cầu được thu gọn lại thành một dải đất đối diện Osijek, bao gồm khu ngoại ô Podravlje và Tvrđavica. HV sau đó đã phát động Chiến dịch Devil's Beam (tiếng Croatia: Operacija Đavolja greda) vào ngày 17–18 tháng 12, với sự tham gia của Tiểu đoàn 1 thuộc Lữ đoàn 135, lực lượng đặc nhiệmTiểu đoàn Frankopan và đơn vị cảnh sát đặc nhiệm Orao, đội sông Drava, pháo lực lượng Đồn cảnh sát Beli Manastir 4,[44]. Chiến dịch đã thành công đẩy lùi JNA về phía bắc, sang bên kia qua hồ Stara Drava nằm cách khoảng bốn kilômét (2,5 dặm) về phía bắc Osijek.[45] JNA cũng rút khỏi làng Kopačevo về phía Darda và Vardarac, nhưng HV không có đủ nguồn lực để tận dụng cơ hội.[46] HV mất tám người trong cuộc tấn công,[47] nhưng nhờ vậy cuộc tiến công Osijek từ phía bắc của JNA đã dừng lại.[44]

Hậu quả

Đến tháng 6 năm 1992, khoảng 800 người đã thiệt mạng do trận chiến.[27] Đến cuối Chiến tranh giành độc lập Croatia vào năm 1995, tổng số 1.724 người từ Osijek đã thiệt mạng, bao gồm 1.327 binh sĩ và 397 dân thường.[48] Thành phố đã phải chịu thiệt hại lớn trong chiến tranh, với phần lớn do hậu quả của cuộc bắn phá năm 1991–92.[49] Thiệt hại trực tiếp ước tính tổng cộng 1,3 tỷ đô la Mỹ.[50] Trong trận chiến, có 400 tình nguyện viên thường xuyên ghi lại những thiệt hại này.[51]

Mặc dù truyền thông đưa tin về vụ bắn phá Osijek, nhưng bản thân các nhà báo trong thành phố cảm thấy rằng sự kiện nhận được ít sự quan tâm của truyền thông so với các sự kiện khác.[52] Các cuộc tấn công vào Osijek đã được ủng hộ bởi tờ báo Pravoslavlje do Nhà thờ Chính thống giáo Serbia xuất bản. Tờ báo cho rằng cuộc tấn công như một phần của cuộc "thánh chiến", đặt trong bối cảnh về các vụ thảm sát người Serb trong Thế chiến II và các trại tập trung ở Nhà nước Độc lập Croatia.[53]

JNA rút khỏi Croatia vào năm 1992, nhưng vẫn tiếp tục cung cấp nhân lực và trang thiết bị cho Quân đội Cộng hòa Serbia Krajina (ARSK) kiểm soát các khu vực trước đây do JNA nắm giữ.[54] Mặc dù lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc đã triển khai đến khu vực này theo kế hoạch Vance và giữ hầu hết vũ khí hạng nặng ARSK,[55] Osijek đã bị bắn phá một số lần trong suốt cuộc chiến — cuộc tấn công cuối cùng xảy ra vào tháng 9 năm 1995.[56] Các hành động thù địch chấm dứt vào tháng 11 năm 1995 thông qua Thỏa thuận Erdut đảm bảo khôi phục chủ quyền của Croatia trong khu vực.[57]

Vào tháng 11 năm 2010, Tổng thống Croatia Ivo Josipović chính thức xin lỗi về vụ thảm sát Paulin Dvor, ngay sau khi người đồng cấp Serbia Boris Tadić đưa ra lời xin lỗi chính thức về vụ thảm sát Vukovar.[41]

Xét xử tội ác chiến tranh

Năm 2008, chính quyền Croatia chính thức buộc tội Boro Ivanović, sĩ quan chỉ huy Lữ đoàn cơ giới hóa vô sản 12, và 12 sĩ quan JNA khác về tội ác chiến tranh. Các cáo buộc bao gồm cái chết của 307 thường dân ở Osijek và các khu vực lân cận, làm bị thương 171 thường dân khác và phá hủy ít nhất 1.188 công trình kiến ​​trúc khác nhau. Tính đến năm 2013[cập nhật], phần lớn các sĩ quan bị truy tố vẫn còn ở Serbia.[58]

Năm 2005, Tòa án Osijek đã kết án cựu binh sĩ Croatia Nikola Ivanković 15 năm tù vì liên quan đến vụ thảm sát Paulin Dvor. Vào năm 2012, Enes Vitesković cũng bị kết án vì liên quan đến vụ thảm sát này và nhận bản án 11 năm.[42]

5 chiến binh Croatia cũng bị buộc tội và kết án 11 tội danh giết người, một tội cố ý giết người và một tội tra tấn thường dân Serb được tìm thấy trong doanh trại của JNA. Họ nhận bản án tù từ 5 đến 8 năm. Glavaš, người bị xét xử cùng với họ vì cùng tội danh, đã nhận bản án 10 năm.[26][59] Trước khi xét xử kết thúc vào năm 2009, để tránh dẫn độ, Glavaš chạy trốn đến Bosnia và Herzegovina, và được cấp quyền công dân. Bản án của Glavaš được giảm xuống còn 8 năm và việc xét xử kết thúc vào năm 2010, khi Glavaš bị bắt và thực hiện án tù ở Bosnia và Herzegovina.[60] Vào tháng 1 năm 2015, bản án đã được Tòa án Hiến pháp Croatia hủy bỏ, chờ xét xử lại trước Tòa án tối cao Croatia.[61]

Chú thích

  1. ^ Hoare 2010, tr. 117.
  2. ^ Hoare 2010, tr. 118.
  3. ^ The New York Times ngày 19 tháng 8 năm 1990.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFThe_New_York_Times_ngày_19_tháng_8_năm_1990 (trợ giúp)
  4. ^ Woodward 1995, tr. 170.
  5. ^ Hoare 2010, tr. 118–119.
  6. ^ Ramet 2006, tr. 384–385.
  7. ^ a b Hoare 2010, tr. 119.
  8. ^ Sell 2002, tr. 373.
  9. ^ The New York Times ngày 3 tháng 3 năm 1991.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFThe_New_York_Times_ngày_3_tháng_3_năm_1991 (trợ giúp)
  10. ^ The New York Times ngày 2 tháng 4 năm 1991.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFThe_New_York_Times_ngày_2_tháng_4_năm_1991 (trợ giúp)
  11. ^ Ramet 2006, tr. 397.
  12. ^ a b c d e f Marijan 2012a, tr. 111.
  13. ^ CIA 2002, tr. 93.
  14. ^ a b The Washington Post ngày 6 tháng 9 năm 1991.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFThe_Washington_Post_ngày_6_tháng_9_năm_1991 (trợ giúp)
  15. ^ a b Marijan 2012b, tr. 261.
  16. ^ Vreme ngày 7 tháng 9 năm 2006.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFVreme_ngày_7_tháng_9_năm_2006 (trợ giúp)
  17. ^ a b CIA 2002b, tr. 103.
  18. ^ Marijan 2003, note 20.
  19. ^ Slobodna Dalmacija ngày 8 tháng 11 năm 2003.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFSlobodna_Dalmacija_ngày_8_tháng_11_năm_2003 (trợ giúp)
  20. ^ Slobodna Dalmacija ngày 26 tháng 10 năm 2006.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFSlobodna_Dalmacija_ngày_26_tháng_10_năm_2006 (trợ giúp)
  21. ^ Libal 1997, tr. 30.
  22. ^ Libal 1997, tr. 38.
  23. ^ a b Ramsbotham, Miall & Woodhouse 2011, tr. 308, 310.
  24. ^ Mesić 2004, tr. 233.
  25. ^ CIA 2002b, tr. 86.
  26. ^ a b Nacional ngày 24 tháng 10 năm 2006.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFNacional_ngày_24_tháng_10_năm_2006 (trợ giúp)
  27. ^ a b Jegen 1996, tr. 14.
  28. ^ Bailey 2004, tr. 435.
  29. ^ Ramet 2006, tr. 409.
  30. ^ Nacional ngày 27 tháng 4 năm 2012.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFNacional_ngày_27_tháng_4_năm_2012 (trợ giúp)
  31. ^ Andraković & Jukić 2009, tr. 31.
  32. ^ Los Angeles Times ngày 26 tháng 11 năm 1991.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFLos_Angeles_Times_ngày_26_tháng_11_năm_1991 (trợ giúp)
  33. ^ Ramsbotham, Miall & Woodhouse 2011, tr. 308.
  34. ^ a b c CIA 2002, tr. 101–102.
  35. ^ Macdonald 2002, tr. 104.
  36. ^ Ahrens 2007, tr. 117.
  37. ^ CIA 2002b, tr. 208.
  38. ^ The Washington Post ngày 4 tháng 12 năm 1991.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFThe_Washington_Post_ngày_4_tháng_12_năm_1991 (trợ giúp)
  39. ^ Glas Slavonije ngày 6 tháng 12 năm 2012.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFGlas_Slavonije_ngày_6_tháng_12_năm_2012 (trợ giúp)
  40. ^ Los Angeles Times ngày 9 tháng 12 năm 1991.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFLos_Angeles_Times_ngày_9_tháng_12_năm_1991 (trợ giúp)
  41. ^ a b BBC ngày 4 tháng 11 năm 2010.
  42. ^ a b B92 ngày 11 tháng 12 năm 2011.
  43. ^ Fraser ngày 17 tháng 12 năm 1991.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFFraser_ngày_17_tháng_12_năm_1991 (trợ giúp)
  44. ^ a b Bajto ngày 18 tháng 12 năm 2011.
  45. ^ Pejić ngày 19 tháng 12 năm 2014.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFPejić_ngày_19_tháng_12_năm_2014 (trợ giúp)
  46. ^ Alilović ngày 18 tháng 12 năm 2014.
  47. ^ Zelenić ngày 18 tháng 12 năm 2014.
  48. ^ HRT ngày 28 tháng 6 năm 2012.
  49. ^ Pavičić 2009, tr. 150.
  50. ^ Pavičić 2009, tr. 154.
  51. ^ Pavičić 2009, tr. 153.
  52. ^ Mercier 1995, tr. 135.
  53. ^ Ramet 2006, tr. 400.
  54. ^ Armatta 2010, tr. 216.
  55. ^ CIA 2002, tr. 107.
  56. ^ Večernji list ngày 16 tháng 11 năm 2011.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFVečernji_list_ngày_16_tháng_11_năm_2011 (trợ giúp)
  57. ^ Ramet & Matić 2007, tr. 46.
  58. ^ Blic ngày 17 tháng 11 năm 2008.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFBlic_ngày_17_tháng_11_năm_2008 (trợ giúp)
  59. ^ Nacional ngày 8 tháng 5 năm 2009.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFNacional_ngày_8_tháng_5_năm_2009 (trợ giúp)
  60. ^ Nacional ngày 28 tháng 9 năm 2010.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFNacional_ngày_28_tháng_9_năm_2010 (trợ giúp)
  61. ^ Jurasić ngày 12 tháng 1 năm 2015.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFJurasić_ngày_12_tháng_1_năm_2015 (trợ giúp)

Tham khảo

Sách
  • Ahrens, Geert-Hinrich (2007). Diplomacy on the Edge: Containment of Ethnic Conflict and the Minorities Working Group of the Conferences on Yugoslavia. Washington, D.C.: Woodrow Wilson Center Press. ISBN 978-0-8018-8557-0.
  • Armatta, Judith (2010). Twilight of Impunity: The War Crimes Trial of Slobodan Milosevic. Durham, North Carolina: Duke University Press. ISBN 978-0-8223-4746-0.
  • Bailey, Jonathan B. A. (2004). Field Artillery and Firepower. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 978-1-59114-029-0.
  • Central Intelligence Agency, Office of Russian and European Analysis (2002). Balkan Battlegrounds: A Military History of the Yugoslav Conflict, 1990–1995. Washington, D.C.: Central Intelligence Agency. ISBN 978-0-16-066472-4. OCLC 50396958.
  • Central Intelligence Agency, Office of Russian and European Analysis (2002). Balkan battlegrounds: a military history of the Yugoslav conflict, 1990–1995, Volume 2. Washington, D.C.: Central Intelligence Agency. ISBN 978-0-16-066472-4.
  • Hoare, Marko Attila (2010). “The War of Yugoslav Succession”. Trong Ramet, Sabrina P. (biên tập). Central and Southeast European Politics Since 1989. Cambridge, England: Cambridge University Press. tr. 111–136. ISBN 978-1-139-48750-4.
  • Libal, Michael (1997). Limits of Persuasion: Germany and the Yugoslav Crisis, 1991–1992. Westport, Connecticut: Greenwood Publishing Group. ISBN 978-0-275-95798-8.
  • Mesić, Stjepan (2004). The Demise of Yugoslavia: A Political Memoir. Budapest, Hungary: Central European University Press. ISBN 978-963-9241-81-7.
  • Ramet, Sabrina P.; Matić, Davorka (2007). Democratic Transition in Croatia: Value Transformation, Education & Media. College Station, Texas: Texas A&M University Press. ISBN 978-1-58544-587-5.
  • Jegen, Mary Evelyn (1996). Sign of Hope: the Center for Peace, Nonviolence and Human Rights in Osijek. Uppsala, Sweden: Life & Peace Institute. ISBN 978-91-87748-34-9.
  • Macdonald, David Bruce (2002). Balkan Holocausts?: Serbian and Croatian Victim Centered Propaganda and the War in Yugoslavia. Manchester, England: Manchester University Press. ISBN 978-0-7190-6467-8.
  • Mercier, Michèle (1995). Crimes Without Punishment: Humanitarian Action in Former Yugoslavia. Basingstoke, England: Palgrave Macmillan. ISBN 978-0-7453-1080-0.
  • Ramet, Sabrina P. (2006). The Three Yugoslavias: State-Building And Legitimation, 1918–2006. Bloomington, Indiana: Indiana University Press. ISBN 978-0-253-34656-8.
  • Ramsbotham, Oliver; Miall, Hugh; Woodhouse, Tom (2011). Contemporary Conflict Resolution. Cambridge, England: Polity. ISBN 978-0-7456-4973-3.
  • Sell, Louis (2002). Slobodan Milosevic and the Destruction of Yugoslavia. Durham, North Carolina: Duke University Press. ISBN 978-0-8223-3223-7.
  • Woodward, Susan L. (1995). Balkan Tragedy: Chaos and Dissolution after the Cold War. Washington, D.C.: Brookings Institution Press. ISBN 9780815722953.
Tạp chí khoa học
  • Andraković, Verica; Jukić, Marijan (tháng 12 năm 2009). “Dinamika stanovništva grada Osijeka od 1857. do 2001. godine” [Population dynamics in the city of Osijek from 1857 till 2001]. Annals of the Institute for Scientific and Art Research in Osijek (bằng tiếng Croatia). Croatian Academy of Sciences and Arts (25): 23–45. ISSN 1332-456X.
  • Marijan, Davor (tháng 12 năm 2003). “"Jedinstvo" – Posljednji ustroj JNA” ["Unity" – The last order of battle of the JNA]. Polemos: Journal of Interdisciplinary Research on War and Peace (bằng tiếng Croatia). Croatian Sociological Association and Jesenski & Turk Publishing House. 6 (11–12): 11–47. ISSN 1331-5595.
  • Marijan, Davor (tháng 5 năm 2012). “The Sarajevo Ceasefire – Realism or strategic error by the Croatian leadership?”. Review of Croatian History. Croatian Institute of History. 7 (1): 103–123. ISSN 1845-4380.
  • Marijan, Davor (tháng 11 năm 2012). “Zamisao i propast napadne operacije Jugoslavenske narodne armije na Hrvatsku u rujnu 1991. godine” [The Conception and Failure of the Offensive Operation of the Yugoslav National Army in September 1991]. Journal of Contemporary History (bằng tiếng Croatia). Croatian Institute of History. 44 (2): 251–275. ISSN 0590-9597.
  • Pavičić, Marta (tháng 12 năm 2009). “Ratne štete kao posljedica Domovinskog rata i njihov utjecaj na razvoj Osijeka” [War damage as a consequence of the Croatian War of Independence and its impact on development of Osijek]. Annals of the Institute for Scientific and Art Research in Osijek (bằng tiếng Croatia). Croatian Academy of Sciences and Arts (25): 149–164. ISSN 1332-456X.
Báo chí
  • Alilović, Saša (ngày 18 tháng 12 năm 2014). “23. godine od Đavolje grede” [23 Years Since Devil's Beam] (bằng tiếng Croatia). Radio Baranja. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2021.
  • Bajto, Amoreta (ngày 18 tháng 12 năm 2011). “Đavolja greda” [Devil's Beam] (bằng tiếng Croatia). Croatian Radiotelevision.
  • “Serb leader Tadic apologises for 1991 Vukovar massacre”. BBC. ngày 4 tháng 11 năm 2010.
  • “21 years since massacre of civilians in Croatia”. B92. ngày 11 tháng 12 năm 2012.
  • Bajto, Amoreta (ngày 28 tháng 6 năm 2012). “Dan osječkih branitelja: "Opća opasnost" večeras” [Day of the defenders of Osijek: "Opća opasnost" in the city tonight] (bằng tiếng Croatia). Croatian Radiotelevision. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2013.
  • “Optužnica protiv 13 oficira JNA zbog razaranja Osijeka” [Charges against 13 JNA officers for destruction of Osijek]. Blic (bằng tiếng Serbia). Tanjug. ngày 17 tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2013.
  • Čizmić, Martina (ngày 28 tháng 9 năm 2010). “Branimir Glavaš uhićen i odveden u pritvor u Drinovcima” [Branimir Glavaš arrested and in custody in Drinovci]. Nacional (bằng tiếng Croatia). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2010.
  • Cvitić, Plamenko (ngày 24 tháng 10 năm 2006). “Srbe ubijala somborska skupina” [Serbs were killed by the Sombor Group]. Nacional (bằng tiếng Croatia). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2012.
  • Đuričić, Vuk (ngày 26 tháng 10 năm 2006). “Smrt je stizala crvenim Yugom” [Death arrived in a red Yugo]. Slobodna Dalmacija (bằng tiếng Croatia). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2013.
  • Đuričić, Vuk (ngày 8 tháng 11 năm 2003). “Transport kostiju” [Bone Transport]. Slobodna Dalmacija (bằng tiếng Croatia). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2013.
  • Engelberg, Stephen (ngày 3 tháng 3 năm 1991). “Belgrade Sends Troops to Croatia Town”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2013.
  • Fraser, John (ngày 17 tháng 12 năm 1991). “EC Agrees a Compromise Deal over Yugoslavia: Pressure from Bonn Speeds up Support for Breakaway Regions”. The Herald (Glasgow).
  • Harden, Blaine (ngày 6 tháng 9 năm 1991). “Besieged Croatian City Groans Under Shelling; Serb Guerrillas Press Attack on Osijek”. The Washington Post. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2011.
  • Janić, Adelina (ngày 17 tháng 12 năm 2012). “Obilježena 21. obljetnica akcije "Đavolja greda"” [21st Anniversary of Operation Devil's Beam Marked] (bằng tiếng Croatia). Baranja Medija. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2015.
  • Jurasić, Marinko (ngày 12 tháng 1 năm 2015). “Ustavni sud ukinuo osuđujuću presudu Vrhovnog suda Branimiru Glavašu” [Constitutional Court Sets Aside Supreme Court Conviction of Branimir Glavaš]. Večernji list (bằng tiếng Croatia).
  • “HDSSB se neće odreći zločinca” [HDSSB will not give up the criminal]. Nacional (bằng tiếng Croatia). HINA. ngày 27 tháng 4 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2013.
  • Pejić, Darko (ngày 19 tháng 12 năm 2014). “Prisjećanje na uspješnu akciju Đavolja greda” [Commemoration of Successful Operation Devil's Beam]. Glas Slavonije (bằng tiếng Croatia).
  • Rački-Kristić, Željka (ngày 16 tháng 11 năm 2011). “HNK gorio pod granatama. "Gledali smo u zgradu kao u pokojnika"” [Croatian National Theatre burned in bombardment. "We stared at the building as if it just died"]. Večernji list (bằng tiếng Croatia). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2013.
  • “Roads Sealed as Yugoslav Unrest Mounts”. The New York Times. Reuters. ngày 19 tháng 8 năm 1990. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 9 năm 2013.
  • “Skidamo prašinu: Vojno-redarstvena akcija Đavolja greda” [Removing Dust From: Military and Police Operation Devil's Beam] (bằng tiếng Croatia). SIB.hr portal. ngày 23 tháng 12 năm 2013.
  • “Scattered Shelling Mars Latest Yugoslav Cease-Fire”. Los Angeles Times. Associated Press. ngày 26 tháng 11 năm 1991. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2012.
  • Silber, Laura (ngày 4 tháng 12 năm 1991). “Vance Inspects Damage in Besieged Croatian City”. The Washington Post. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2011.
  • Sudetic, Chuck (ngày 2 tháng 4 năm 1991). “Rebel Serbs Complicate Rift on Yugoslav Unity”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2013.
  • Šimičević, Hrvoje (ngày 8 tháng 5 năm 2009). “Glavaš osuđen na 10 godina zatvora, Šišljagić i HDSSB ga skrivaju” [Glavaš sentenced to 10 years in prison, Šišljagić and HDSSB shelter him]. Nacional (bằng tiếng Croatia). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2009.
  • Švarm, Filip (ngày 7 tháng 9 năm 2006). “Dete Službe” [Service Issue]. Vreme (bằng tiếng Serbia). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2012.
  • “Vance Reportedly Makes Gains on Peacekeepers for Croatia”. Los Angeles Times. Associated Press. ngày 9 tháng 12 năm 1991.
  • Vukotić, Mirko (ngày 6 tháng 12 năm 2012). “Hrvatska ne može, neće i ne smije zaboraviti svoje junake, rekao je ministar” [Croatia can not, will not and must not forget its heroes, said the minister]. Glas Slavonije (bằng tiếng Croatia). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2013.
  • Zelenić, Ksenija (ngày 18 tháng 12 năm 2014). “Godišnjica akcije "Đavolja greda"” [Anniversary of Operation Devil's Beam] (bằng tiếng Croatia). Croatian Radiotelevision. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2021.

Đọc thêm

  • Blaskovich, Jerry (1997). Anatomy of Deceit: An American Physician's First-Hand Encounter With the Realities of the War in Croatia. Sonoma, California: Dunhill Publishing. ISBN 978-0-935016-24-6. – Chapter 6: The Devastation of Osijek and the Smoldering Ashes of Vukovar