Giả Quỳ (Tam Quốc)

Sơn Tây Mất
Ngày mất
228
Nguyên nhân mất
bệnh Giới tínhnamGia quyến
Hậu duệ
Giả Sung Nghề nghiệpchính kháchQuốc tịchĐông Hán, Tào Ngụy
[sửa trên Wikidata]x • t • s

Giả Quỳ (chữ Hán: 贾逵, 174 – 228) vốn có tên là Giả Cù, tên tự là Lương Đạo, người huyện Tương Lăng, quận Hà Đông[1], tướng lãnh cuối thời Đông Hán, quan viên, khai quốc công thần nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.

Thiếu thời

Giả Quỳ được sinh ra trong một gia đình có truyền thống học tập, cha mất sớm, nhà nghèo.[1] Khi còn bé, Quỳ bày trò chơi thường sắp đặt đội ngũ, ông nội Giả Tập lấy làm lạ, nói: "Mày lớn lên ắt làm tướng soái." Bèn truyền miệng binh pháp mấy vạn chữ. [2]

Ông vốn có tên là Cù, về sau đổi là Quỳ.[3][2]

Phục vụ Tào Tháo

Không phục Quách Viện

Ban đầu Giả Quỳ làm Lại trong quận, giữ chức Giáng Ấp trưởng dưới quyền Tào Tháo. Chiến tranh giữa Tào Tháo và họ Viên xảy ra ở Hà Bắc. Bộ tướng của Viên Thượng là Quách Viện được phong làm Thái thú Hà Đông, mang quân đánh quận Hà Đông (202). Quách Viên đi qua thành, ấp nào cũng hạ được. Giả Quỳ cố thủ, Quách Viện không hạ được, bèn gọi quân của Cao Cán ở Tinh Châu là người cùng phe họ Viên và Nam thiền vu Hô Trù Tuyền người Hung Nô, khi ấy đang ở Bình Dương cùng đánh gấp. Thành sắp vỡ, phụ lão Giáng Ấp yêu cầu Viện không làm hại Quỳ. Quân giữ thành đã tan vỡ, Viện nghe tiếng của Quỳ, muốn dùng làm tướng, sai thủ hạ bắt giữ, ông không phản ứng. Bộ hạ của Viện ép Quỳ cúi lạy, ông quát: "Nào có trưởng lại của nhà nước cúi lạy giặc!" Viện giận, muốn chém đi. Quan dân Giáng Ấp nghe tin, đều lên thành hô rằng: "Trái lời hứa mà giết người hiền của bọn ta, thì cùng chết đấy!" Bộ hạ của Viện cảm động, phần nhiều xin cho Quỳ, nên ông được tha chết.[4] Giả Quỳ về sau được bộ hạ của Viện ngầm thả đi nên thoát thân.[5]

Từ trước khi có chiến sự, Giả Quỳ đi qua huyện Bì Chi[3], nói: "Giành được đất này trước thì thắng." Đến khi bị vây, biết khó thoát, bèn sai người lẻn ra đem ấn thụ về quận, còn nói: "Mau giữ lấy Bì Chi." Viện đã thôn tính người Giáng Ấp, muốn tiến quân. Giả Quỳ sợ Quách Viện chiếm Bì Chi trước, liền bày kế mê hoặc mưu sĩ của ông ta là Chúc Áo, vì thế Viện lưu lại bảy ngày. Quận theo lời Quỳ, nên không thất bại.[6]

Khéo lừa Trương Diễm

Sau đó Giả Quỳ được cử Mậu tài, nhận chức Mẫn Trì lệnh. Cao Cán đã hàng rồi lại phản (204), Trương Diễm hưởng ứng ông ta. Quỳ không biết mưu ấy, đến gặp Diễm. Nghe tin nổi dậy, muốn về, lại sợ bị bắt, bèn vờ đồng mưu với Diễm. Bấy giờ huyện trị đặt ở Lễ Thành, Quỳ theo Diễm đi mượn quân sửa thành. Những kẻ muốn làm loạn đều (tin tưởng Quỳ nên) không giấu diếm ý định, nên Quỳ bắt hết mà giết đi. Rồi sửa thành chống lại Diễm. Diễm bại, Quỳ lấy cớ có tang ông nội mà rời chức (206), được phủ Tư đồ gọi làm Duyện thuộc, nhận chức Nghị lang Tham Tư lệ quân sự [4]. [7]

Kề cận Tào Tháo

Tào Tháo đánh Mã Siêu (211), đến quận Hoằng Nông, nói: "Đây là nơi trọng yếu của tây đạo", lấy Quỳ lãnh chức Hoằng Nông thái thú. Quỳ được gọi đến để hỏi han công việc, Tháo rất hài lòng về ông, nói với tả hữu rằng: "Giả sử những người nhận lương bổng hai ngàn thạch [5] đều như Giả Quỳ, ta còn lo gì?" [8]Quỳ được Tào Tháo cất nhắc là nhờ Tôn Tư tiến cử. [9] Sau khi Tào Tháo phát binh, Quỳ ngờ Đồn điền đô úy che giấu dân bỏ trốn. Đô úy cho rằng mình không thuộc quận, nói năng không thuận tai. Quỳ giận, bắt ông ta, kể mấy tội, đánh gãy chân ông ta, nên bị miễn quan. Nhưng Tào Tháo ưa thích Quỳ, dùng làm Thừa tướng chủ bộ. [10]

Tào Tháo muốn đánh Ngô (214) nhưng gặp mưa dầm, ba quân phần nhiều không muốn đi. Tháo biết vậy, sợ có người can gián, nên hạ lệnh ai can sẽ bị giết. Quỳ nghe lệnh, nói với 3 chủ bộ đồng liêu rằng: "Nay thật là không nên nói, nhưng ra lệnh thế này, thì không thể không can." Bèn làm bản thảo can gián đưa cho 3 người ấy, họ không từ chối được, đều ký tên vào, rồi bẩm lên. Tháo giận, bắt bọn Quỳ. Sắp bị tống ngục, Tháo chọn bắt kẻ cầm đầu, Quỳ nhận là mình, rồi chạy vào ngục. Ngục lại biết Quỳ làm Chủ bộ, không vội cùm lại. Quỳ nói ngục lại rằng: "Mau cùm ta lại. Bậc tôn qúy (chỉ Tào Tháo) lại ngờ ta dựa vào chức vụ gần gũi (với Tào Tháo), nên đòi được sự nương nhẹ của anh, nay sắp sai người đến dò xét ta đấy." Quỳ vừa bị cùm xong, thì Tào Tháo quả nhiên sai đứa ở vào ngục xem tình hình của ông. Sau đó Tào Tháo cho Quỳ được phục nguyên chức. [11]

Tào Tháo đánh Lưu Bị (219), sai Quỳ đi trước xem xét hình thế Tà Cốc, trên đường gặp Thủy hành đô úy, áp giải vài mươi xe tù; Quỳ cho rằng việc quân đang gấp, liền làm tội một tên trọng phạm, còn lại đều tha đi. Tào Tháo hài lòng, bái làm Gián nghị đại phu, cùng Hạ Hầu Thượng coi sổ sách quân đội. [12]

Phục vụ Tào Phi

Ủng lập Tào Phi

Tào Tháo mất ở Lạc Dương (220), Quỳ coi việc tang. [13] Khi ấy Tào Phi ở Nghiệp Thành, Tào Chương chưa đến, quan dân đều khổ vì lao dịch, lại có bệnh dịch, vì thế trong quân náo động. Các quan sợ có biến, không muốn phát tang. Quỳ kiến nghị khó mà giấu được, bèn cho cử ai, lệnh trong ngoài đều vào viếng, viếng xong, đều về chỗ cũ không được náo động. Nhưng quân Thanh Châu lại nổi trống mà về, mọi người cho rằng nên cấm chỉ, không nghe thì trấn áp. Quỳ cho rằng "nay đại tang còn đấy, tự vương chưa lập, nên nhân đó mà vỗ về bọn chúng". Rồi làm hịch, báo cho các địa phương cung cấp lương thực cho họ. [14] Bấy giờ Tào Chương giữ chức Việt kị Tướng quân, từ Trường An đến, hỏi ấn thụ Ngụy vương ở đâu. Quỳ nghiêm mặt nói: "Thế tử ở Nghiệp, nước có người nối dõi. Ấn thụ của Tiên vương, không phải là thứ mà quân hầu nên hỏi." Rồi đưa quan tài về Nghiệp. [15]

Được nhiều sủng hạnh

Tào Phi nối ngôi vương, cho rằng mấy vạn hộ của huyện Nghiệp thuộc kinh đô, phần lớn chưa vào khuôn phép, bèn lấy Quỳ làm Nghiệp lệnh. Hơn tháng, được thăng làm Ngụy Quận thái thú. [16] Ban đầu quan thuộc của Ngụy Quận có việc công hẹn nhau rất gấp, chợt nghe tin Quỳ sắp nắm quận, đều rời phủ đến trước cửa huyện. Khi thư thăng chức đến, Quỳ ra cửa, thì quan thuộc đứng đầy cửa, gặp ông ở dưới xe. Quỳ xua tay nói: "Phải đến trị sở chứ, sao lại làm thế này?" [17]

Tào Phi đưa quân nam hạ (tháng 6 cùng năm) [6], Quỳ lại được làm Thừa tướng Chủ bộ Tế tửu. Quỳ từng bị kể tội, Tào Phi nói: "Thúc Hướng (có công đức) [7] đến 10 đời sau còn được tha, huống hồ công đức của Quỳ là do tự thân mà có?" Theo đại quân đến Lê Dương, trong lúc vượt sông đội ngũ bị rối loạn, Quỳ bắt chém kẻ gây rối, quân đội được chỉnh đốn. Đến Tiếu, Tào Phi lấy Quỳ làm Dự Châu thứ sử. [18]

Trị lý Dự Châu

Quỳ nhận chức thứ sử, dâng lời rằng: "Thần giữ thiên môn, ra vào 6 năm, thiên môn mới mở, mà thần phải ra ngoài. Mong điện hạ lo nghĩ cho triệu dân, đừng trái lòng mong đợi của trời và người." [19] [8] Khi ấy cục diện mới ổn định, châu quận phần nhiều không nghiêm chỉnh. Quỳ nói: "Châu vốn lấy Thứ sử ra coi sóc các quận, dựa vào chiếu thư 6 điều tra xét trưởng lại có lương bổng 2000 thạch trở xuống [9], nên tình trạng của họ là đều nói mình biết chỉnh đốn rèn luyện – thể hiện oai võ, có tài quản lý tra xét; không nói mình biết thái bình yên ổn – rộng rãi nhân hậu, có đức vui vẻ dễ dàng. Nay trưởng lại coi thường pháp luật, giặc cướp ngang nhiên lộng hành, châu biết mà không quản, thiên hạ làm sao giữ chính đạo?" Binh tào tùng sự do thứ sử trước bổ nhiệm, Quỳ đến nhận chức vài tháng, cho ông ta nghỉ; tra xét những trưởng lại dưới quyền ông ta a dua làm trái phép nước, đều dâng tấu miễn chức bọn họ. Tào Phi nói: "Quỳ mới đúng là thứ sử vậy." Bố cáo thiên hạ, lấy Dự Châu làm gương. Quỳ được ban tước Quan nội hầu. [20]

Phòng bị Đông Ngô

Phía nam Dự Châu liền kề với nước Ngô, Quỳ tra xét rõ, sửa sang giáp binh, sẵn sàng cho chiến tranh, khiến kẻ địch không dám xâm phạm. Ngoài sửa quân đội, trong coi việc dân; ngăn sông Yên, Nhữ, tạo hồ chứa nước mới; lại xẻ núi khơi dòng, tạo hồ chứa nước nhỏ ở Dặc Dương; lại thông suốt hơn 200 dặm ngòi, gọi là ngòi Giả Hầu. Năm Hoàng Sơ thứ 6 (225), tham gia đánh Ngô, phá Lữ Phạm ở Động Phổ, được tiến phong Dương Lý đình hầu, gia Kiến uy tướng quân. [21]

Phục vụ Tào Duệ

Phòng bị Đông Ngô

Minh đế Tào Duệ lên ngôi (227), ông được tăng ấp 200 hộ, kể cả trước đây là 400 hộ. Khi ấy Tôn Quyền ở Đông Quan (tức Nhu Tu khẩu) nằm ở phía nam Dự Châu, cách Trường Giang hơn 400 dặm. Quận Ngô mỗi lần xâm phạm, tây từ Giang Hạ, đông từ Lư Giang. Quân Ngụy chống trả, đều theo lối các sông Hoài (đông), Miện (tây). Khi ấy quân Dự Châu ở Hạng, còn các quận Dĩnh Xuyên, Dặc Dương chỉ có thể giữ mình. Quân Ngô không lo mặt bắc, đông – tây nguy cấp, hợp quân cứu ứng, nên ít khi thất bại. Quỳ cho rằng nên mở đường thẳng ra Trường Giang, nếu Tôn Quyền phải chống đỡ, thì 2 mặt còn lại không có cứu binh; nếu 2 mặt không có cứu binh, thì Đông Quan có thể lấy được. Bèn dời đi đóng đồn ở Lạo Khẩu, trình bày kế hoạch công – thủ, đế bằng lòng. [22]

Cứu ứng Tào Hưu

Tướng Ngô là Trương Anh, Vương Sùng đưa quân hàng Ngụy. Năm Thái Hòa thứ 2 (228), Tào Duệ sai Giả Quỳ đốc 4 cánh quân của Tiền tướng quân Mãn Sủng, Đông Hoàn thái thú Hồ Chất, từ Tây Dương nhằm thẳng Đông Quan, Tào Hưu từ Hoàn, Tư Mã Ý từ Giang Lăng. Giả Quỳ đến Ngũ Tướng Sơn, Hưu dâng biểu nói có tướng Ngô xin hàng (chính là Chu Phường trá hàng), xin vào sâu để đón. Có chiếu cho Tư Mã Ý dừng quân, Quỳ sang phía đông cùng tiến với Hưu. Quỳ đoán quân Ngô không phòng bị Đông Quan, ắt hợp quân ở Hoàn; Hưu vào sâu gặp quân Ngô, ắt bại. Quỳ bèn sắp đặt chư tướng, thủy lục cùng tiến, đi hơn 200 dặm, bắt sống kẻ địch, được kể rằng Hưu thất bại, quân Ngô đã chẹn Giáp Thạch. Chư tướng không biết làm gì, bàn nhau muốn đợi hậu quân. Quỳ nói: "Quân của Hưu thua ở ngoài, đường đi bị cắt đứt ở trong, tiến không thể đánh, lui không thể về, cái thế an nguy, không đợi hết ngày. Giặc cho rằng quân ta không có hậu viện, nên mới đến đây; nay tiến gấp, xuất kỳ bất ý, đây là ra tay trước đánh vào lòng địch vậy; giặc gặp quân ta ắt bỏ chạy. Nếu đợi hậu quân, giặc chẹn chỗ hiểm, binh nhiều thì ít gì!" Bèn 2 đường cùng tiến, bày nhiều cờ trống làm nghi binh, quân Ngô gặp quân của Quỳ, bèn lui. Giả Quỳ giữ Giáp Thạch, đem binh – lương giúp Tào Hưu, cánh quân của Hưu được chấn hưng.[23]

Qua đời

Cùng năm, Giả Quỳ lâm bệnh nặng, nói với tả hữu rằng: "Ta nhận ơn dày của nước nhà, hận không chém được Tôn Quyền để xuống gặp tiên đế. Việc tang không được làm gì to tát." Ông mất, được ban thụy là Túc hầu.[24] Khi ấy Giả Quỳ được 55 tuổi.[25]

Con ông là Giả Sung được kế tự.

Người Dự Châu thương nhớ ông, khắc đá lập từ ở đất Hạng. Cấc vua Tào Duệ và Tào Mao trong những lần đi đánh Đông Ngô, đi qua Dự Châu, đều đến viếng ông.[26][27]

Tính cách

Giả Quỳ thuở thiếu thời vì nhà nghèo, nên mùa đông thường không có quần để mặc, có hôm tá túc nhà anh vợ là Liễu Phu, trời còn chưa sáng, (có việc phải đi nên) lấy quần của Phu mà dùng, người thời ấy khen là khoát đạt. [28]

Khi Quỳ còn đi học, đọc khắp các tấm gương đại nghĩa, chọn ra những người mà mình có thể học theo. Thích nhất là Xuân Thu Tả truyện, đến khi làm Mục thú, vẫn thường tự đọc sách ấy, mỗi tháng một lần. [29]

Ban đầu Giả Quỳ với Tào Hưu không bằng lòng về nhau. Khi xưa Ngụy văn đế Tào Phi muốn cho ông tạm giữ cờ tiết (Giả tiết)[10], Hưu nói: "Quỳ tính cương, vốn khinh thường chư tướng, không thể làm đốc." Tào Phi bèn thôi. Khi thua ở Giáp Thạch, nếu không có Giả Quỳ, quân của Tào Hưu đã không được cứu.[30] Nhưng Hưu đổ lỗi Quỳ tiến chậm, bèn mắng nhiếc ông; rồi lấy quyền chủ tướng đòi Quỳ với thân phận Dự Châu thứ sử đi thu nhặt khí giới. Quỳ cậy mình có lý, nói với Hưu rằng: "Ta vốn là vì nước nhà mà làm Dự Châu thứ sử, không cần phải đi giúp ai đó thu nhặt khí giới." Bèn đưa quân về. Rồi cùng Hưu thay nhau dâng biểu tâu lên, triều đình tuy biết Quỳ phải, nhưng Hưu là tông thất đang được trọng dụng, nên kết luận đôi bên đều không sai.[31] Hưu vẫn không bỏ qua, tìm dịp kể tội Quỳ, ông không đáp lại nữa. Đa phần người đương thời đều khen ngợi ông[32].

Dật sự

Quỳ khi xưa ở quận Hoằng Nông, cùng Điển nông hiệu úy tranh chấp việc công, đuối lý, phát phẫn mà sinh nhọt. Về sau bệnh ngày càng nặng, Quỳ xin Tào Tháo sai Thái y cắt nhọt cho mình. Tháo tiếc ông là người trung thành, từ chối rằng: "Ta nghe nói 10 người cắt nhọt thì 9 người chết." Quỳ nghe theo, nên nhọt ngày càng lớn.[33]

Năm Gia Bình thứ 3 (251), Vương Lăng chống lại Tư Mã Ý thất bại, trên đường bị áp giải về kinh, đi qua miếu của Giả Quỳ, kêu lớn: "Giả Lương Đạo, chỉ có ngài mới biết Vương Lăng là trung thần của Đại Ngụy."[34] Cùng năm, Tư Mã Ý bệnh nặng, mơ thấy Giả Quỳ, Vương Lăng đến ám mình, không lâu thì mất.[35]

Năm Cam Lộ đầu tiên (256), Tư Mã Chiêu sai Giả Sung đi dò xét Gia Cát Đản. Sung giả say nói với Đản rằng lòng người đang muốn họ Tư Mã thay ngôi họ Tào, Đản nghiêm sắc mặt đáp: "Anh không phải là con Giả Dự Châu à? Đời đời chịu ơn của Ngụy, mà lại muốn đem xã tắc nộp cho kẻ khác? Nếu Lạc Dương có nạn, ta sẵn sàng chết đấy!" [36]

Xem thêm

Tham khảo

  1. ^ Trần ThọTam Quốc Chí, Ngụy thư quyển 15, Giả Quỳ truyện.
  2. ^ Bùi Tùng Chi chú Trần Thọ, sđd dẫn từ Ngư HoạnNgụy lược.
  3. ^ Bùi Tùng Chi chú Trần Thọ, sđd dẫn từ Ngư Hoạn, sđd rằng: Viện bắt được Quỳ, Quỳ không chịu vái, nói với Viện rằng: "Vương phủ quân coi quận nhiều năm, nào biết túc hạ là ai?" [11] Viện giận nói: "Chém ngay đi." Các tướng xin cho, rồi cầm tù ở Hồ Quan, nhốt trong hố đất, chèn bánh xe bên trên, sai người canh giữ. Sắp bị đem giết, Quỳ ở trong hố đất bảo người coi giữ rằng: "Nơi này không có tráng sĩ hay sao, mà khiến nghĩa sĩ phải chết ở đây vậy?" Bấy giờ có người tên là Chúc Công Đạo, không quen biết gì Quỳ, nhưng nghe được lời ấy, thương xót Quỳ ngay thẳng mà gặp tai ách, bèn trong đêm dẫn đường thoát ra, bẻ gông tha đi, không xưng họ tên của mình... Sau khi (quân Tào) phá được Quách Viện, Quỳ mới biết người thả mình khi trước là Chúc Công Đạo. Công Đạo là người quận Hà Nam. Về sau (Công Đạo) mắc tội khác, đáng phải chết. Quỳ cứu ông ta, nhưng không làm nổi, (nên) chịu tang ông ta.
  4. ^ Bùi Tùng Chi chú Trần Thọ, sđd dẫn từ Tôn Tư biệt truyện rằng: Tư được cử làm Kế lại của quận Hà Đông [12], đến Hứa Đô, dâng lời lên Tướng phủ (chỉ Tào Tháo) rằng: "Quỳ tại Giáng Ấp, khích lệ quan dân, cùng giặc Quách Viện giao chiến, sức kiệt mà bại, bị giặc bắt giữ, chí khí hiên ngang, nói năng bất khuất; lời trung mọi người nghe thấy, tiết liệt đương thời trông thấy, dẫu dựng tóc, nắm vạc đời xưa cũng không hơn được [13]. Ông ta tài kiêm văn võ, thật đáng để trọng dụng."
  5. ^ Bùi Tùng Chi chú Trần Thọ, sđd dẫn từ Vương Thẩm – Ngụy thư.
  6. ^ Trần Thọ, sđd, Ngụy thư quyển 28, Vương Lăng truyện.
  7. ^ Phòng Huyền Linh (chủ biên) – Tấn thư quyển 1, Đế kỷ 1, Tuyên đế kỷ
  8. ^ Phòng Huyền Linh (chủ biên) – Tấn thư quyển 40, liệt truyện 10, Giả Sung truyện

Chú thích

  1. ^ Nay là Tương Phần, Sơn Tây
  2. ^ Theo Tự điển Thiều Chửu, (衢) và Quỳ (逵) đều có nghĩa là Con đường lớn thông khắp các ngả.
  3. ^ Nay là Hà Tân, Sơn Tây
  4. ^ Tham Tư lệ quân sự tức là chức Tham quân dưới quyền Tư lệ hiệu úy, khi ấy là Chung Do.
  5. ^ Lương bổng của thái thú là 2000 thạch/năm.
  6. ^ Cuộc nam hạ này của Tào Phi - đánh tiếng là phạt Ngô - thực chất là tuần du tứ xứ, nhằm tạo thanh thế sau khi kế vị Ngụy vương.
  7. ^ Dương Thiệt Hật (? - ?), tự Thúc Hướng hay Thúc Dự, được ban đất Dương, nên còn gọi là Dương Hật hay Dương Dự, làm đại phu nước Tấn 3 đời quân chủ Điệu, Bình, Chiêu công. Thúc Hướng không được dự vào hàng ngũ Lục khanh, nhưng nổi tiếng nhờ đạo đức và học thức; từng làm đại biểu của Tấn trong 2 lần gặp mặt của 2 nước Tấn – Sở trong cuộc hội thề Nhị Binh vào năm 546 TCN.
  8. ^ Thiên môn (nghĩa đen là cổng trời) ý nói cổng hoàng cung (Hán Việt: hoàng môn hay hoàng cung chi môn), ở đây chỉ chánh quyền của Tào Phi.
  9. ^ Chiếu thư 6 điều là quy định về phạm vi quyền lực và chức vụ của Thứ sử trong Quận huyện chế của nhà Hán, do Hán Vũ đế ban hành.
  10. ^ Cuối đời Hán đến Nam Bắc triều, người nắm chính – quân quyền tại địa phương: nếu được giữ cờ tiết (Trì tiết) thì có thể tự ý giết quan viên lương bổng 2000 thạch trở xuống nếu người đó phạm tội; nếu được tạm giữ cờ tiết (Giả tiết) thì có thể tự ý giết kẻ phạm quân luật (xem thêm Tấn thư – Chức quan chí).
  11. ^ Vương phủ quân là chỉ Hà Đông thái thú Vương Ấp
  12. ^ Thượng kế lại (chữ Hán: 上计吏), gọi tắt là Kế lại, quan chức có trách nhiệm báo cáo tình hình địa phương lên chánh quyền Trung ương.
  13. ^ Dựng tóc [nguyên văn: trực (dựng đứng) phát (tóc)] – nhắc đến điển tích Lận Tương Như nước Triệu uy hiếp Tần Chiêu Tương vương; Nắm (tai) vạc [nguyên văn: cư (nắm giữ) đỉnh (vạc)] – nhắc đến điển tích Thúc Chiêm nước Trịnh đối đáp Tấn Văn công.
  • x
  • t
  • s
Nhân vật thời Hán mạtTam Quốc
Nhà
cai trị
Đông Hán
Tào Ngụy
Thục Hán
Đông Ngô
Tây Tấn
Khác
Hậu phi
phu nhân
Đông Hán
Đổng thái hậu • Hà thái hậu • Đổng quý nhân • Phục hoàng hậu • Tào hoàng hậu
Tào Ngụy
Đinh phu nhân • Biện phu nhân • Hoàn phu nhân • Chân hoàng hậu • Quách hoàng hậu • Ngu phi • Mao hoàng hậu • Quách hoàng hậu • Chân hoàng hậu • Trương hoàng hậu • Vương hoàng hậu • Biện hoàng hậu • Biện hoàng hậu
Thục Hán
Đông Ngô
Ngô phu nhân • Đại Kiều • Bộ phu nhân • Vương phu nhân • Vương phu nhân • Phan hoàng hậu • Toàn hoàng hậu • Hà thái hậu • Trương phu nhân • Chu hoàng hậu  • Đằng hoàng hậu
Khác
Triệu Nga • Thái Diễm • Hoàng Nguyệt Anh • Tiểu Kiều • Từ phu nhân • Tân Hiến Anh • Vương Dị • Tôn Lỗ Ban • Tôn Lỗ Dục • Lục Úc Sinh • Nguyễn phu nhân • Trương Xuân Hoa • Hạ Hầu Huy • Dương Huy Du • Vương Nguyên Cơ
Quan lại
Tào Ngụy
Ẩn Phồn • Bà Khâm • Bàng Dục • Bào Huân • Bỉnh Nguyên • Bùi Tiềm • Cao Đường Long • Cao Nhu • Chu Thước • Chung Do • Chung Dục • Diêm Ôn • Du Sở • Dương Bái • Dương Phụ • Dương Tu • Dương Tuấn • Đặng Dương • Đặng Hi • Đinh Dị • Đinh Mật • Đinh Nghi • Đinh Phỉ • Đô Thị Ngưu Lợi • Đỗ Kỳ • Đỗ Tập • Đỗ Thứ • Đổng Chiêu • Đổng Ngộ • Giả Hủ • Hạ Hầu Hòa • Hạ Hầu Huệ • Hạ Hầu Huyền • Hạ Hầu Uy • Hà Yến • Hàm Đan Thuần • Hàn Kỵ • Hàn Phạm • Hàn Tung • Hạo Chu • Hí Chí Tài • Hình Ngung • Hình Trinh • Hoa Hâm • Hòa Hiệp • Hoàn Điển • Hoàn Giai • Hoàn Phạm • Hoàn Uy • Hồ Chất • Hứa Chi • Hứa Doãn • Hứa Du • Kê Hỉ • Kê Khang • Khoái Việt • Lệnh Hồ Ngu • Lệnh Hồ Thiệu • Lộ Túy • Lư Dục • Lưu Dị • Lưu Diệp • Lưu Đào • Lưu Nghị • Lưu Phóng • Lưu Phức • Lưu Thiệu • Lưu Tiên • Lưu Tĩnh • Lưu Trinh • Lương Mậu • Lương Tập • Lý Nghĩa • Lý Phong • Lý Thắng • Mã Tuân • Mãn Vĩ • Mạnh Khang • Mạnh Kiến • Mao Giới • Mộc Tịnh • Ngu Tùng • Nguyễn Tịch • Nguyễn Vũ • Ngư Hoạn • Ôn Khôi • Phó Cán • Phó Hỗ • Phó Huyền • Phó Tốn • Quách Gia • Quốc Uyên • Sơn Đào • Tào Bưu • Tào Cứ • Tào Hùng • Tào Hi • Tào Lễ • Tào Vũ • Tảo Chi • Tân Tì • Tân Sưởng • Tất Kham • Thạch Thao • Thôi Diệm • Thôi Lâm • Thôi Tán • Thương Từ • Thường Lâm • Tiết Đễ • Tô Lâm • Tôn Tư • Tôn Ung • Trần Đăng • Trần Kiều • Trần Lâm • Trần Quần • Trình Dục • Trình Vũ • Trịnh Hồn • Trịnh Mậu • Trịnh Tiểu Đồng • Trịnh Xung • Trọng Trường Thống • Trương Cung • Trương Ký • Trương Phạm • Trương Tập • Trương Thừa • Tuân Du • Tuân Duyệt • Tuân Dực • Tuân Nghĩ • Tuân Úc • Tuân Vĩ • Tư Mã Chi • Tư Mã Lãng • Tư Mã Phu • Tư Mã Sư • Tư Mã Ý • Từ Cán • Từ Mạc • Từ Tuyên • Tưởng Ban • Tưởng Tế • Ứng Cừ • Ứng Sướng • Ứng Thiệu • Vệ Ký • Vệ Trăn • Vi Đản • Vi Khang • Viên Hoán • Viên Khản • Vũ Chu • Vương Hùng • Vương Lãng • Vương Nghiệp • Vương Quán • Vương Quảng • Vương Tất • Vương Tu • Vương Túc • Vương Tư • Vương Tượng • Vương Xán
Thục Hán
Ân Quán • Âm Hóa • Bàng Lâm • Bàng Thống • Bành Dạng • Bùi Tuấn • Diêu Trụ • Doãn Mặc • Dương Hồng • Dương Hí • Dương Nghi • Dương Ngung • Đặng Lương • Đỗ Quỳnh • Đỗ Vi • Đổng Doãn • Đổng Hòa • Đổng Khôi • Đổng Quyết • Gia Cát Kiều • Gia Cát Lượng • Gia Cát Quân • Giản Ung • Hà Chi • Hà Tông • Hoàng Hạo • Hồ Tiềm • Hứa Tĩnh • Hứa Từ • Hướng Lãng • Khước Chính • Lã Khải • Lã Nghệ • Lai Mẫn • Lại Cung • Liêu Lập • Lưu Ba • Lưu Cán • Lưu Diệm • Lưu Độ • Lý Mạc • Lý Mật • Lý Thiệu • Lý Triều • Lý Nghiêm • Lý Phong • Lý Phúc • Lý Soạn • Mã Lương • Mạnh Quang • My Trúc • Phàn Kiến • Pháp Chính • Phí Thi • Phí Y • Quách Du Chi • Tần Mật • Tập Trinh • Thường Úc • Tiều Chu • Tôn Càn • Tông Dự • Trần Chấn • Trần Chi • Trần Thọ • Trình Kỳ • Trương Biểu • Trương Duệ • Trương Thiệu • Trương Tồn • Từ Thứ • Tưởng Hiển • Tưởng Uyển • Xạ Kiên • Xạ Viên • Y Tịch • Vương Liên • Vương Mưu • Vương Phủ • Vương Sĩ
Đông Ngô
Ân Lễ  • Bộ Chất • Bộc Dương Hưng • Cố Đàm • Cố Đễ • Cố Thiệu • Cố Ung • Cố Vinh • Chu Trị • Chung Ly Mục • Diêu Tín • Dương Đạo • Dương Trúc • Đằng Dận • Đằng Mục • Đằng Tu • Đinh Mật • Đổng Triều • Gia Cát Cẩn • Gia Cát Khác • Hà Định • Hạ Thiệu • Hà Thực • Hác Phổ • Hoa Dung • Hoa Hạch • Hoàn Di • Hoằng Cầu • Hồ Tống • Hồ Xung • Hứa Cống • Khám Trạch • Kỵ Diễm • Kỷ Trắc • Lã Ý • Lạc Thống • Lâu Huyền • Lỗ Túc • Lục Cơ • Lục Hỉ • Lục Khải • Lục Mạo • Lục Tích • Lục Vân • Lục Y • Lưu Cơ • Lưu Đôn • Mạnh Nhân • Nghiêm Tuấn • Ngô Xán • Ngô Phạm • Ngu Phiên • Ngu Dĩ • Ngu Thụ • Phan Tuấn • Phạm Chẩn • Phạm Thận • Phùng Hi • Sầm Hôn • Tạ Cảnh • Tạ Thừa • Thạch Vĩ • Thái Sử Hưởng • Thẩm Hành • Thị Nghi • Tiết Doanh • Tiết Hủ • Tiết Tống • Toàn Ký • Toàn Thượng • Tôn Bá • Tôn Dực • Tôn Đăng • Tôn Hòa • Tôn Khuông • Tôn Kỳ • Tôn Lâm • Tôn Lự • Tôn Phấn • Tôn Thiệu • Tôn Tuấn • Tôn Tư • Tôn Ý • Trần Hóa • Triệu Đạt • Trình Bỉnh • Trương Chấn • Trương Chiêu • Trương Đễ • Trương Hoành • Trương Hưu • Trương Nghiễm • Trương Ôn • Trương Thừa • Từ Tường • Ung Khải • Vạn Úc • Vi Chiêu • Vương Phồn
Tây Tấn
Bùi Khải • Bùi Tú • Đỗ Chẩn • Đỗ Liệt • Giả Sung • Hà Phàn • Hà Tăng • Hà Trinh • Hầu Sử Quang • Hoàng Phủ Yến • Hồ Uy • Hướng Hùng • Lư Khâm • Lưu Nghị • Lưu Thực • Ngụy Thư • Phan An • Phùng Dư • Thọ Lương • Thoán Cốc • Thường Kỵ • Tô Du • Trương Hoa • Tuân Húc • Tư Mã Du • Ứng Trinh • Vệ Quán • Văn Lập • Vương Lãm • Vương Nghiệp • Vương Nhung • Vương Thẩm • Vương Tường
Khác
Lư Thực • Trương Nhượng • Triệu Trung • Tào Tung • Trương Ôn • Hàn Phức • Hoàng Uyển • Ngũ Quỳnh • Trần Cung • Thư Thụ • Điền Phong • Thẩm Phối • Bàng Kỷ • Quách Đồ • Tân Bình • Điền Trù • Đào Khiêm • Tuân Thầm • Trịnh Thái • Hà Ngung • Phó Tiếp • Cái Huân • Trần Kỷ • Trần Khuê • Trương Dương • Triệu Kỳ • Dương Bưu • Mã Mật Đê • Vương Doãn • Sĩ Tôn Thụy • Khổng Dung • Khổng Trụ • Tang Hồng • Ngụy Phúng • Lý Tiến • Lý Nho • Trương Mạc • Trương Siêu • Quản Ninh • Viên Di • Vương Liệt • Thái Ung • Gia Cát Huyền • Lưu Kỳ • Khoái Lương • Hàn Huyền • Đổng Phù • Triệu Vĩ • Vương Thương • Trương Tùng
Tướng
lĩnh
Tào Ngụy
Ân Thự • Bàng Đức • Bàng Hội • Cao Lãm • Châu Thái • Chu Cái • Chu Linh • Chung Hội • Diêm Hành • Diêm Nhu • Doãn Lễ • Doãn Phụng • Dương Hân • Dương Kỵ • Đặng Ngải • Đặng Trung • Điền Dự • Điền Tục • Điển Vi • Đới Lăng • Giả Quỳ • Giả Tín • Gia Cát Đản • Hạ Hầu Đôn • Hạ Hầu Hiến • Hạ Hầu Mậu • Hạ Hầu Nho • Hạ Hầu Thượng • Hạ Hầu Uyên • Hạ Hầu Vinh • Hác Chiêu • Hàn Hạo • Hàn Tống • Hầu Âm • Hầu Thành • Hoàng Hoa • Hồ Liệt • Hồ Phấn • Hồ Tuân • Hứa Chử • Hứa Nghi • Khiên Chiêu • Lã Khoáng • Lã Kiền • Lã Thường • Lã Tường • Lâu Khuê • Lộ Chiêu • Lỗ Chi • Lưu Đại • Lưu Huân • Lý Điển • Lý Phụ • Lý Thông • Mãn Sủng • Ngô Chất • Ngô Đôn • Ngưu Kim • Ngụy Bình • Ngụy Tục • Nhạc Lâm • Nhạc Tiến • Nhâm Tuấn • Phí Diệu • Quách Hoài • Quán Khâu Kiệm • Sư Toản • Sử Hoán • Tang Bá • Tào Chân • Tào Chương • Tào Hồng • Tào Hưu • Tào Nhân • Tào Sảng • Tào Thái • Tào Thuần • Tào Triệu • Tần Lãng • Tất Quỹ • Thái Dương • Thành Công Anh • Thân Nghi • Tiên Vu Phụ • Tiêu Xúc • Tô Tắc • Tôn Lễ • Tôn Quán • Tống Hiến • Trần Thái • Triệu Ngang • Triệu Nghiễm • Triệu Tiển • Trương Cáp • Trương Đặc • Trương Hổ • Trương Liêu • Trương Tú • Tư Mã Vọng • Từ Hoảng • Văn Hổ • Văn Khâm • Văn Sính • Văn Thục • Vu Cấm • Vương Bí • Vương Kinh • Vương Lăng • Vương Song • Vương Sưởng • Vương Trung • Xương Hi
Thục Hán
Bàng Hi • Cao Tường • Câu Phù • Diêm Vũ • Đặng Chi • Gia Cát Chiêm • Gia Cát Thượng • Hạ Hầu Bá • Hạ Hầu Lan • Hoàng Trung • Hoàng Quyền • Hoắc Dặc • Hoắc Tuấn • Hồ Tế • Hướng Sủng • Khương Duy • La Hiến • Liêu Hóa • Liễu Ẩn • Lôi Đồng • Lôi Tự • Lưu Bàn • Lưu Mẫn • Lưu Phong • Lưu Tuần • Lưu Ung • Lý Khôi • Mã Đại • Mã Siêu • Mã Tắc • Mã Trung • Mạnh Đạt • Mạnh Hoạch • Nghiêm Nhan • Ngô Ban • Ngô Lan • Ngô Ý • Ngụy Diên • Phí Quán • Phó Dung • Phó Thiêm • Phụ Khuông • Phùng Tập • Quan Bình • Quan Hưng • Quan Vũ • Sa Ma Kha • Tập Trân • Thân Đam • Trác Ưng • Trần Đáo • Trần Thức • Triệu Lũy • Triệu Vân • Trương Dực • Trương Nam • Trương Ngực • Trương Phi • Tưởng Bân • Tưởng Thư • Viên Lâm • Vương Bình • Vương Hàm • Vương Tự
Đông Ngô
Bộ Cơ • Bộ Hiệp • Bộ Xiển • Cam Ninh • Chu Cứ • Chu Dận • Chu Du • Chu Dị • Chu Hoàn • Chu Nhiên • Chu Phường • Chu Tài • Chu Thái • Chu Thiệu • Chu Xử • Chung Ly Tuân • Cố Dung • Cố Thừa • Cốc Lợi • Đào Hoàng • Đào Tuấn • Đinh Phong • Đinh Phụng • Đổng Tập • Đường Tư • Gia Cát Dung • Gia Cát Tịnh • Hạ Đạt • Hạ Tề • Hàn Đương • Hoàng Cái • Kỷ Chiêm • Lã Cứ • Lã Đại • Lã Khải • Lã Mông • Lã Phạm • Lăng Tháo • Lăng Thống • Lỗ Thục • Lục Cảnh • Lục Dận • Lục Kháng • Lục Tốn • Lục Yến • Lưu A • Lưu Bình • Lưu Lược • Lưu Tán • Lưu Toản • Lý Dị • Lý Úc • Mã Mậu • Mã Trung • My Phương • Ngô Cảnh • Ngô Ngạn • Ngu Tiện • Ngu Trung • Nhuế Huyền • Phan Chương • Phan Lâm • Phạm Cương • Quách Mã • Sĩ Nhân • Tạ Tinh • Thái Sử Từ • Thẩm Oánh • Thi Tích • Tiên Vu Đan • Toàn Dịch • Toàn Đoan • Toàn Tông • Toàn Tự • Tô Phi • Tổ Lang • Tổ Mậu • Tôn Ân • Tôn Bí • Tôn Cảo • Tôn Chấn • Tôn Di • Tôn Dị • Tôn Du • Tôn Hâm • Tôn Khải • Tôn Lãng • Tôn Lân • Tôn Hà • Tôn Hiệu • Tôn Hoàn • Tôn Hoán • Tôn Phụ • Tôn Thiều • Tôn Tịnh • Tôn Tuấn • Tôn Tùng • Tống Khiêm • Trần Biểu • Trần Tu • Trần Vũ • Trình Phổ • Trịnh Trụ • Trương Bố • Trương Đạt • Tu Doãn • Tu Tắc • Từ Côn • Từ Thịnh • Tưởng Khâm • Vu Thuyên • Vương Đôn
Tây Tấn
Chu Tuấn • Dương Hỗ • Dương Tắc • Dương Tông • Dương Triệu • Đỗ Dự • Đổng Nguyên • Đường Bân • Gia Cát Tự • Hồ Uyên • Khiên Hoằng • Lý Tùng • Mã Long • Mao Cảnh • Mạnh Cán • Thạch Bao • Thoán Năng • Trần Khiên • Tôn Tú • Tuân Khải • Tư Mã Dung • Tư Mã Lượng • Tư Mã Phụ • Tư Mã Trụ • Tư Mã Tuấn • Vương Hồn • Vương Tố • Vương Tuấn
Khác
Trương Bảo • Trương Lương • Trương Yên • Mã Nguyên Nghĩa • Hoàng Phủ Tung • Chu Tuấn • Hà Tiến • Đinh Nguyên • Từ Cầu • Hoa Hùng • Chủng Tập • Chủng Thiệu • Bào Tín • Kỷ Linh • Kiều Nhuy • Lôi Bạc • Trần Lan • Văn Xú • Nhan Lương • Khúc Nghĩa • Lý Thôi • Quách Dĩ • Trương Tế • Phàn Trù • Đoàn Ổi • Từ Vinh • Hồ Chẩn • Dương Định • Tào Báo • Lưu Tích • Giả Long • Trương Nhiệm • Lưu Khôi • Dương Ngang • Dương Nhiệm • Biên Chương • Bắc Cung Ngọc • Lý Văn Hầu • Thuần Vu Quỳnh • Viên Hi • Cao Cán • Cao Thuận • Thành Liêm • Tào Tính • Hác Manh • Trương Tiện • Liễu Nghị • Trách Dung • Hầu Tuyển • Trình Ngân • Trương Hoành • Thành Nghi • Lý Kham • Mã Ngoạn • Dương Thu • Lương Hưng • Lý Mông • Vương Phương • Đổng Thừa • Dương Phụng • Hàn Tiêm • Lã Giới • Vương Uy • Hoàng Tổ
Khác
Bàng Đức Công • Chu Bất Nghi • Chu Kiến Bình • Chu Quần • Chu Tuyên • Đỗ Quỳ • Đổng Phụng • Điêu Thuyền • Hạ Hầu Xứng • Hoa Đà • Hoàng Phủ Mật • Hoàng Thừa Ngạn • Hồ Chiêu • Mã Hưu • Mã Thiết • Lã Hưng • Lưu Huy • Mã Quân • Nễ Hành • Quản Lộ • Tả Từ • Tào Bất Hưng • Tào Thực • Tào Xung • Thành Tế • Tuân Sảng • Tuân Xán • Tống Trọng Tử • Tôn Thiệu • Triệu Nguyệt • Trịnh Huyền • Nhâm An • Trương Bao • Trương Tiến • Trương Trọng Cảnh • Tư Mã Huy • Vương Bật
Liên quan